Diễn đàn đàn kết nối các sản phẩm khoa học công nghệ do Bộ NN-PTNT tổ chức được kỳ vọng sẽ khơi thông được những vướng mắc, tạo động lực cho nghiên cứu, chuyển giao sản phẩm KHCN ra sản xuất. Ảnh: Tùng Đinh.
Ngày 10/7, Bộ NN-PTNT sẽ tổ chức Diễn đàn đàn kết nối các sản phẩm khoa học công nghệ (KHCN) ngành nông nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã, người dân. Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Minh Hoan và Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Phùng Đức Tiến chủ trì Diễn đàn.
Tham dự Diễn đàn có lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ NN-PTNT, các viện nghiên cứu, các trường trực thuộc Bộ NN-PTNT, các doanh nghiệp, hợp tác xã, các tổ chức quốc tế… liên quan đến ngành nông nghiệp.
Diễn đàn được tổ chức theo dạng hỏi - đáp, trả lời trực tiếp các câu hỏi mà các đại biểu quan tâm, các phóng sự giới thiệu về chủ trương, chính sách của Bộ NN-PTNT trong việc khuyến khích nghiên cứu, đổi mới KHCN và những kết quả đạt được, giới thiệu các điển hình đã và đang chuyển giao thành công sản phẩm KHCN vào sản xuất.
Tại Diễn đàn sẽ diễn ra lễ ký kết chuyển giao, thương mại sản phẩm KHCN với sự chứng kiến của Bộ trưởng Lê Minh Hoan, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến và các đại biểu.
Trong khuôn khổ Diễn đàn, từ ngày 9 – 10/7, tại Bộ NN-PTNT (số 2 Ngọc Hà, Ba Đình, Hà Nội), Bộ NN-PTNT sẽ tổ chức không gian trưng bày, giới thiệu sản phẩm, công nghệ, kết quả nghiên cứu nổi bật của các viện, trường, doanh nghiệp với 8 không gian trưng bày thuộc các lĩnh vực trồng trọt - bảo vệ thực vật; chăn nuôi - thú y; lâm nghiệp; thủy sản; thủy lợi - phòng chống thiên tai; cơ điện và công nghệ sau thu hoạch…
Cơ giới hóa trong sản xuất lúa gạo góp phần thúc đẩy liên kết chuỗi giá trị, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường. Ảnh: Lê Hoàng Vũ.
Những con số ấn tượng
Những năm qua, khoa học công nghệ (KHCN) đã có những đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội trên tất cả các lĩnh vực, trong đó có ngành nông nghiệp.
Những ứng dụng KHCN bao trùm trên tất cả các lĩnh vực từ trồng trọt, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, thú y, thủy sản, lâm nghiệp, thủy lợi, công nghệ sau thu hoạch…, góp phần thúc đẩy sản xuất, chế biến, kinh doanh theo hướng liên kết chuỗi giá trị, hình thành vùng sản xuất khép kín quy mô hàng hóa, hiện đại, đáp ứng được yêu cầu khắt khe của thị trường.
Hoạt động chuyển giao KHCN được triển khai mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, góp phần giảm chi phí đầu tư, tăng lợi nhuận và mang lại hiệu quả kinh tế cao trong sản xuất.
Theo thống kê, tốc độ tăng trưởng ngành nông nghiệp bình quân 3 năm (giai đoạn 2021 - 2023) đạt 3,35%/năm, trong khi giai đoạn 2016 - 2020 chỉ đạt 2,62%/năm.
KHCN là khâu khâu đột phá đưa kinh tế nông nghiệp Việt Nam có được kết quả này. Dự báo, xuất khẩu nông - lâm - thủy sản năm 2024 có thể chạm mốc 60 tỷ USD.
Trong lĩnh vực trồng trọt, tỷ lệ sử dụng giống cấp xác nhận (hoặc tương đương) nhiều loại cây trồng đạt khá cao.
Chăn nuôi lợn công nghệ cao, quy mô lớn giúp tạo ra các sản phẩm sạch, chất lượng. Ảnh: QL.
Nhờ ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, việc tạo ra giống lúa mới đã trở nên hiệu quả hơn. Ngày nay, các nhà khoa học chỉ cần 30 - 50 tổ hợp lai để chọn tạo ra một giống lúa mới, so với khoảng 100 tổ hợp lai như trước đây. Điều này giúp rút ngắn thời gian chọn giống xuống còn khoảng 5 năm, giảm đáng kể thời gian và công lao động, đồng thời đáp ứng được hầu hết các yêu cầu quan trọng đối với giống lúa như năng suất cao, chất lượng gạo ngon, thời gian sinh trưởng ngắn, khả năng chống chịu sâu bệnh tốt và thích ứng rộng.
Bên cạnh đó, cây cà phê Việt Nam đã có những đột phá về năng suất, cao gấp 3 lần so với năng suất cà phê trên thế giới. Cây điều cung cấp khoảng 40% tổng nguyên liệu cho công nghiệp chế biến điều của Việt Nam. Sản xuất rau và cây ăn quả trong những năm qua liên tục tăng về diện tích, năng suất và sản lượng, chủng loại đa dạng phong phú.
Dấu ấn của KHCN trong chăn nuôi - thú y cũng được thể hiện rõ nét. Giai đoạn 2013 - 2020, Bộ NN-PTNT đã công nhận 42 giống vật nuôi mới, 23 tiến bộ kỹ thuật và 19 giải pháp sáng chế trong lĩnh vực này. Hiện nay, có 54 giống vật nuôi năng suất và chất lượng cao được đưa vào sản xuất, bao gồm 11 giống mới, 12 giống ngoại nhập và 31 giống lai tạo.
Trình độ của các nhà khoa học trong nước cũng ngày càng được nâng cao rõ rệt, thể hiện qua những thành công trong nghiên cứu và hoàn thiện quy trình sản xuất tinh đông lạnh gia súc, quy trình gây động dục và thụ tinh nhân tạo cho trâu bò, cũng như sản xuất tinh trâu bò đông lạnh dạng cọng rạ đảm bảo chất lượng tốt.
Công ty Cổ phần Mực nhảy Biển Đông hạ thủy lồng nuôi biển lớn nhất Việt Nam. Công trình do chính CEO Nguyễn Bá Ngọc thiết kế, thi công trong thời gian liên tục gần 2 tháng. Ảnh: Hoàng Anh.
Không chỉ vậy, việc vacxin dịch tả lợn châu Phi “Made in Vietnam” chính thức xuất khẩu sang 5 quốc gia bao gồm Philippines, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ và Myanmar là niềm tự hào lớn của ngành chăn nuôi nước nhà.
Lĩnh vực thủy sản đã chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ nhờ áp dụng KHCN Hiện nay, hàng loạt giống thủy sản có giá trị kinh tế cao như cá vược, cá chim vây vàng, cá nhụ, cá chiên, cá lăng, chạch chấu, hải sâm, ốc hương và các giống cá nước lạnh đã được sinh sản nhân tạo thành công và làm chủ công nghệ nuôi.
Mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại trong việc nghiên cứu và chuyển giao sản phẩm KHCN, ngành thủy sản đã đạt được những bước tiến đáng kể. Giai đoạn 2016 - 2023, có 22 giống mới, 28 tiến bộ kỹ thuật, 13 sáng chế và 14 quy trình, giải pháp hữu ích đã được công nhận.
Nhờ sự đóng góp của khoa học công nghệ, ngành thủy sản đã duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định ở mức 4,5 - 5%. Ngành thủy sản đang hướng tới giảm đánh bắt và tăng nuôi trồng, nhận được sự quan tâm của trung ương và các tỉnh trong việc ưu tiên phát triển nuôi trồng thủy sản.
Lâm nghiệp cũng là một điểm sáng trong hoạt động ứng dụng KHCN và đổi mới sáng tạo. Thời gian qua, ngành lâm nghiệp Việt Nam đã có 78 giống cây trồng, 35 tiến bộ kỹ thuật, 11 sáng chế và các giải pháp hữu ích được công nhận. Bộ NN-PTNT đã công nhận 11 tiến bộ kỹ thuật về lâm sinh và đang triển khai xây dựng 11 tiến bộ kỹ thuật mới.
Các giống cây lâm nghiệp nuôi cấy mô luôn đảm bảo các yếu tố sạch bệnh, ưu việt về năng suất, chất lượng gỗ. Ảnh: BT.
Giống keo BV16, BV523 chỉ là hai trong tổng số 78 giống mới, cùng với 33 tiến bộ kỹ thuật và 11 sáng chế đối với các loài như keo lai, keo tai tượng, keo lá tràm, keo lá liềm, keo tam bội, bạch đàn uro, bạch đàn lai, bạch đàn pellita, thông, macadamia, tràm năm gân, sa nhân tím, đàn hương và dẻ ván ăn quả đã được Bộ NN-PTNT công nhận và trồng rộng rãi trên cả nước.
Đặc biệt, giống keo lá tràm AA9 trồng ở Đông Nam bộ có năng suất đạt tới 34m3/ha/năm, gấp hơn ba lần so với giống thông thường, tương đương năng suất của keo lai.
Khơi thông vướng mắc, tạo động lực cho nông nghiệp
Còn nhiều những khó khăn, vướng mắc cần được tháo gỡ, tuy nhiên phát triển KHCN và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng trong việc tạo nền tảng, động lực để phát triển nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại và nông dân văn minh.
Đóng góp của KHCN vào sự phát triển nông nghiệp của nước ta hiện vẫn còn hạn chế, trong khi các nước phát triển có mức đóng góp lên tới trên 50%. Việc áp dụng KHCN chưa rộng rãi và không đồng đều trong các giai đoạn.
Các khu công nghệ cao và các vùng công nghệ cao trong nông nghiệp dù đã được xây dựng nhưng chưa hoạt động hiệu quả và chưa thu hút được doanh nghiệp vào hoạt động. Chưa thực sự tạo ra mạng lưới liên kết và sự hỗ trợ đầy đủ trong các khu vực này.
Việc chế biến nông sản bằng công nghệ cao để tạo ra giá trị gia tăng vẫn đang đối mặt với thách thức, các doanh nghiệp chế biến và các dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp chưa thu hút được đầu tư và chưa có sự đổi mới công nghệ đáng kể.
Phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo là nhiệm vụ quan trọng để tạo động lực sản xuất nông nghiệp bền vững. Ảnh: NNVN.
Các ứng dụng KHCN trong các lĩnh vực quản lý tài nguyên bền vững, dự báo, cảnh báo, quản lý vùng trồng và chuỗi cung ứng (blockchain) cũng vẫn chưa được phát triển đầy đủ.
Ngoài ra, phát triển các doanh nghiệp khởi nghiệp trong lĩnh vực KHCN trong nông nghiệp vẫn chưa đạt được những thành tựu như mong đợi. Hoạt động áp dụng công nghệ mới, đổi mới và phát triển thị trường KHCN, cùng năng lực nghiên cứu và chuyển giao công nghệ từ các tổ chức KHCN vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc đưa các sản phẩm khoa học công nghệ vào thị trường đòi hỏi có mạng lưới tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm, cần có vai trò của các doanh nghiệp rất lớn. Vì vậy, các cán bộ quản lý của các đơn vị sự nghiệp khoa học thực hiện cơ chế tự chủ hiện nay thường thiếu năng lực và kinh nghiệm trong điều hành, quản lý đơn vị theo chế độ hạch toán kinh doanh
Việc nắm bắt thông tin trong và ngoài nước, nhất là nhu cầu của sản xuất và của các doanh nghiệp chưa được quan tâm đúng mức để tăng tính thuyết phục của sản phẩm KHCN...
Thời gian tới, Bộ NN-PTNT tiếp tục huy động nguồn vốn đầu tư tập trung cơ sở vật chất, hệ thống trang thiết bị phục vụ nghiên cứu, thí nghiệm của các đơn vị với quy mô lớn thay vì đầu tư nhỏ lẻ cho từng đơn vị như trước đây nhằm đáp ứng cơ bản nhu cầu phát triển, đặc biệt là một số thiết bị hiện đại tương đương khu vực và quốc tế.
Diệp Anh