Theo đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn sẽ không thay đổi quy định về tỷ lệ mạ băng, hàm lượng nước tối đa với cá tra xuất khẩu.
Cụ thể, với kiến nghị bỏ quy định tỷ lệ mạ băng không vượt quá 10%, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho rằng không phải mọi trường hợp đều là 10%. Các trường hợp khác (tức là nước nhập khẩu không quy định) thì áp dụng không vượt quá 10%.
Theo hướng dẫn của Ủy ban Thực phẩm quốc tế (CODEX), tỉ lệ mạ băng để đạt mục tiêu công nghệ thông thường là không quá 5%. Do đó, quy định tỉ lệ mạ băng không được vượt quá 10% tại Nghị định 36 là cần thiết, phù hợp và đủ linh hoạt cho các doanh nghiệp trong chế biến sản phẩm cá tra fillet đông lạnh chất lượng tốt để xuất khẩu và ngăn ngừa gian lận thương mại.
Mục đích công nghệ của việc mạ băng là để bảo vệ sản phẩm nhằm giảm thiểu khả năng mất nước (cháy lạnh) gây suy giảm chất lượng sản phẩm trong quá trình bảo quản đông lạnh.
Về quy định hàm lượng nước tối đa cho phép 83%, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã chỉ đạo Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản triển khai Đề tài khoa học cấp cơ sở nghiên cứu bổ sung về hàm lượng nước trong cá tra fillet đông lạnh.
Kết quả cho thấy, hàm lượng nước tự nhiên trong fillet cá tra chưa qua chế biến (rửa, ngâm quay, cấp đông) là 79.70 ± 0.34%; không phát hiện việc lạm dụng chất kích thích tăng trưởng để tích nước trong cá tại công đoạn nuôi.
Nếu sử dụng phụ gia vừa đủ (tương ứng với hàm lượng nước là 83% và tỷ lệ tăng trọng là 15%) là đã đạt được mục đích cải thiện chất lượng cảm quan, chống mất nước sau rã đông.
Nếu lạm dụng phụ gia đến hàm lượng nước là 85 - 86% thì tỷ lệ tăng trọng sẽ tương ứng từ 35% đến hơn 40%. Điều này, có thể bị coi là gian lận thương mại, làm suy giảm chất lượng sản phẩm cá tra fillet, bán giá thành thấp và dẫn đến nguy cơ cá tra Việt Nam bị cáo buộc, áp thuế chống bán phá giá.
Như vậy, quy định tỷ lệ mạ băng tối đa không quá 10% và hàm lượng nước tối đa trong cá tra fillet đông lạnh không quá 83% (tương ứng với mức tăng trọng là 15%) là có đủ độ tin cậy, cơ sở khoa học và thực tiễn để từng bước nâng cao chất lượng, giá trị và đảm bảo phát triển bền vững sản phẩm cá tra Việt Nam.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, hiện nay, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam chủ yếu qua các doanh nghiệp nhập khẩu chứ không trực tiếp đến hệ thống bán lẻ, nên sự thay đổi này ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhà nhập khẩu và cả doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Điều này lý giải vì sao các nhà nhà nhập khẩu và doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phản ứng quyết liệt và không muốn thay đổi. Việc không kiểm soát chất lượng và để tự doanh nghiệp kê khai đã diễn ra trước khi có Nghị định 36 và hậu quả là dẫn đến khủng hoảng toàn diện như thời gian qua.
Đến cuối tháng 12/2014, sau khi Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tổ chức đoàn kiểm tra thực tế, hàng tồn cá tra chỉ còn khoảng 150.000 tấn.
Để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp trong việc áp dụng các quy định nêu trên, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã đề xuất và được Chính phủ đồng ý chưa thực hiện các quy định về hàm lượng nước, tỷ lệ mạ băng (tại điểm b, c khoản 3, Điều 6 Nghị định số 36/2014/NĐ-CP) đến hết ngày 31/12/2015.