Poly hydroxyl isocopalane tiền năng để chống lại virus đốm trắng trên tôm. Ảnh minh họa: Internet
Thuốc tổng hợp có nguồn gốc nhân tạo có ảnh hưởng tiêu cực đến tôm, vì vậy thuốc có nguồn gốc tự nhiên tự nhiên được mong đợi là một giải pháp để chống lại bệnh WSSV vì thuốc tổng hợp rất khó tiêu hóa bởi cơ thể tôm.
Vase sponge (Callyspongia sp) ở biển Indonesia Ảnh: Getty Images
Loài Callyspongia sp là một loài sinh vật xốp dưới biển thường phát triển dạng ống. Hoạt chất sinh học từ vật liệu sinh vật xốp dưới biển của Indonesia như là cytotoxic, có đặc tính kháng vi khuẩn và kháng virus rất hữu ích trong ứng dụng thuốc và dược phẩm. Tuy nhiên những nghiên cứu về thuốc kháng virus từ loài xốp biển của Indonesia để áp dụng cho vật nuôi còn rất hạn chế. Nghiên cứu này tập trung vào việc sử dụng xốp biển Callyspongia Sp. như là một loại thuốc chống lại virus WSSV trên tôm thẻ chân trắng.
Chất Poly hydroxyl isocopalane được phân lập dựa trên phương pháp phân tách sinh học với công thức phân tử C24H44O5 với trọng lượng phân tử là 412.576 m / z.
Thí nghiệm: Poly hydroxyl isocopalane trên tôm
Tôm thẻ chân trắng (L. vannamei) trọng lượng từ 5-9 , được thu thập từ Peudada. Tôm đưa vào một bể chứa 30 L với độ mặn 20 ppt và nhiệt độ 27-30 °C. Cho ăn bằng thức ăn nhân tạo (thức ăn Kaiohji, Indonesia).
Chuẩn bị virus gây bệnh.
Tôm nhiễm WSSV được thu thập từ các trang trại nuôi tôm thuộc huyện Peudada. Phần mềm của đầu ngực của tôm được ngâm với NTE 10 mL (0,2 mol / L NaCl, 0,02 mol / L Tris-HCl và 0,02 mol / L EDTA, pH 7,4) và sau đó ly tâm hai lần ở tốc độ quay vòng 3000 vòng / phút trong 20 phút và 8000 vòng / phút trong 30 phút để tạo ra dịch trong suốt được lọc qua 0,4 μm.
Hoạt tính sinh học của Polyhydroxy Isocopalane
Các hợp chất Polyhydroxy Isocopalane được sử dụng để kiểm tra hoạt tính sinh học trên tôm thẻ bằng việc tiêm vào cơ tôm với nồng độ từ 5, 10, 15, 20, 25, 30, 35,40, 45, 50, 55 và 60 mg / L. Tôm được quan sát và theo dõi màu sắc cơ thể và lượng thức ăn trong 7 ngày.
Kết quả:
Sự bổ sung Polyhydroxy isocopalane trên tôm thẻ cho thấy hiệu quả chống lại virus ở nồng độ 10 mg / L có tác dụng cao nhất ở nồng độ 60 mg / L. Sự thất bại quá trình trao đổi chất của virus trong quá trình sinh sản trên cơ thể chủ là do sự tương tác giữa các nhóm hydroxy có trong polyhydroxy isocopalane ngăn ngừa sự nhân lên của virus trong tế bào vật chủ.
Kết luận:
Polyhydroxy isocopalane từ Callyspongia sp của Indonesia là thuốc chống virus đối với bệnh đốm trắng WSSV trên tôm thẻ chân trắng L. vannamei. Hợp chất này cho thấy hiệu quả mạnh với tỷ lệ sống sót dưới 40% ở liều 60 mg / L.
Báo cáo của: Viqqi Kurnianda, Khairunnisa, Ade Winanda, Andria Mauliza, Maria Ulfah, Nurfadillah, Reisuke Ishida và Motomasa Kobayashi.
VĂN THÁI