Nông dân huyện Đông Hải sử dụng hóa chất cải tạo môi trường nước nuôi tôm.
Việc phát triển nuôi tôm đặt ra nhiều thách thức về môi trường và tác động không nhỏ đến sự phát triển bền vững.
Ô nhiễm môi trường
Trong định hướng phát triển kinh tế của tỉnh từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, con tôm được xem là đối tượng nuôi chủ lực, nhất là khi Bạc Liêu được Thủ tướng Chính phủ chọn làm thủ phủ cho ngành tôm công nghiệp của cả nước. Trong đó, cùng với xây dựng khu nông nghiệp nuôi tôm ứng dụng công nghệ cao được đầu tư hoàn chỉnh về hạ tầng, hệ thống quản lý môi trường nuôi, các mô hình nuôi tôm còn được nhân rộng và phát triển đến tận hộ dân. Vì vậy, việc nâng cao ý thức và làm tốt công tác quản lý môi trường cần được quan tâm.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, nạn ô nhiễm môi trường từ việc cải tạo, xử lý và lạm dụng các hóa chất cấm trong nuôi tôm đã đến mức cảnh báo. Như trong cải tạo, xử lý ao đầm nuôi tôm, nông dân xả thải bùn từ đáy ao ra các kênh nội đồng gây ô nhiễm nguồn nước. Hoặc khi tôm bệnh chết, người nuôi cũng xả thải nước ô nhiễm ra các kênh nội đồng mà không đưa vào hệ thống ao lắng để xử lý, hay thông báo cho ngành quản lý để có biện pháp can thiệp. Từ đó tạo nên cái vòng luẩn quẩn người thải nước ô nhiễm, người lại lấy nguồn nước ô nhiễm để nuôi tôm làm dịch bệnh lây lan trên diện rộng.
Đó là chưa nói đến chuyện nông dân sử dụng các loại hóa chất, kháng sinh cấm trong cải tạo, xử lý nước để nuôi thủy sản, gây tác động xấu đến môi trường. Cũng như nhiều người làm cạn kiệt nguồn nước ngọt và ô nhiễm nguồn nước ngầm từ việc khoan cây nước để hạ độ mặn ở các đồng tôm khi vào mùa hạn…
Từ việc khảo sát, lấy mẫu và phân tích chất lượng nước của ngành Tài nguyên - Môi trường những năm qua cho thấy, nhiều nơi môi trường nước, đất bị ô nhiễm nặng nề và tác động tiêu cực đến môi trường sinh thái…
Chung tay hành động
Để góp phần bảo vệ môi trường và hướng đến phát triển bền vững, tháng 4/2018, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 14/2018/QĐ-UBND quy định bảo vệ môi trường trong hoạt động nuôi trồng thủy sản.
Theo đó, hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ hoạt động nuôi thủy sản phải được xây dựng đồng bộ, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Hệ thống kênh, mương cấp nước và xả nước thải phải đảm bảo theo quy định của ngành Thủy sản cũng như điều kiện về đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm và các quy định khác có liên quan. Tùy theo quy hoạch nuôi thủy sản, điều kiện tự nhiên của khu vực mà cơ sở nuôi chọn đối tượng và hình thức nuôi hợp lý nhưng phải đảm bảo các tiêu chuẩn kỹ thuật nuôi, các quy chuẩn của ngành Thủy sản. Cụ thể là phải thực hiện đúng các quy định về phòng chống dịch bệnh cho thủy sản nuôi, quy định điều kiện cơ sở, vùng nuôi bán thâm canh, thâm canh tôm sú, tôm thẻ chân trắng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, quy phạm thực hành nuôi thủy sản tốt Việt Nam (VietGAP) và các quy định khác có liên quan của Bộ NN&PTNT.
Đối với các mô hình nuôi thủy sản kết hợp (tôm - lúa, lúa - tôm, tôm - rừng) và các mô hình sản xuất, canh tác bền vững, thân thiện với môi trường, phải bố trí đúng tỷ lệ diện tích đất, mặt nước, vật nuôi và cây trồng theo quy định và hướng dẫn của ngành chức năng. Hoạt động sên, vét bùn cải tạo ao nuôi phải tiến hành đúng kỹ thuật của ngành chức năng hướng dẫn, đúng lịch thời vụ, lịch điều tiết nước của tỉnh.
Đối với xử lý nước thải và chất thải rắn, tùy thuộc vào điều kiện quy mô và loại hình hoạt động mà sử dụng các biện pháp xử lý giảm thiểu ô nhiễm môi trường, vệ sinh phòng dịch theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường, vệ sinh thú y. Riêng xử lý nước thải, hệ thống cấp nước, thoát nước thải phải luôn thông thoáng, được sên vét, cải tạo thường xuyên, đảm bảo không bị bồi lắng, tồn đọng gây tác động xấu đến môi trường và hoạt động sản xuất, canh tác của khu vực. Nước thải phải được thu gom và xử lý bằng biện pháp công nghệ hợp lý, không để rò rỉ, phát tán vi sinh vật, mầm bệnh gây ô nhiễm môi trường. Hệ thống xử lý nước thải phải được vận hành thường xuyên, nước thải sau xử lý đạt giá trị của các thông số: pH, BOD, COD, chất rắn lơ lửng, coliform theo quy định tại QCVN 40:2011/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp…
Cùng với thực hiện tốt các quy định trên, các ngành và địa phương cũng cần tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, góp phần nâng cao nhận thức cho người dân để chung tay bảo vệ môi trường sản xuất xanh - sạch và hướng đến tăng trưởng xanh.
Theo Quyết định số 14/2018/QĐ-UBND của UBND tỉnh, các tổ chức, cá nhân trong hoạt động nuôi trồng thủy sản có trách nhiệm trong việc bảo vệ môi trường (BVMT) và cần tuân thủ, thực hiện tốt các quy định như:
Tuyên truyền, phổ biến các quy định về BVMT trong nuôi trồng thủy sản cho nhân viên, người lao động tại cơ sở, đơn vị mình; vận động cộng đồng xã hội tham gia các hoạt động BVMT. Khai thác, sử dụng hợp lý và quản lý tốt chất lượng môi trường nước trong khu vực.
Chấp hành đúng các quy định của pháp luật về đánh giá tác động môi trường, kế hoạch BVMT. Thực hiện đúng và đầy đủ các nội dung, giải pháp BVMT đã nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi trường được phê duyệt và kế hoạch BVMT được xác nhận.
Khi có nhu cầu thay đổi về vị trí, quy mô, công suất hoạt động của cơ sở nuôi trồng thủy sản hoặc những nội dung khác so với báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt, kế hoạch BVMT đã được xác nhận, chủ cơ sở phải có văn bản báo cáo giải trình với cơ quan đã thẩm định, xác nhận trước đó, và chỉ được triển khai thực hiện những thay đổi sau khi có văn bản chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền.
Chấp thuận chế độ thanh tra, kiểm tra về BVMT, cung cấp đầy đủ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho đoàn thanh tra, kiểm tra khi đến làm việc. Chấp hành và thực hiện nghiêm các yêu cầu, quy định của đoàn thanh tra, kiểm tra. Bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật nếu có hành vi vi phạm các quy định này gây thiệt hại cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân khác…
Thanh Thảo Báo Bạc Liêu